Cha Biển Đức Thuận (P3)

Photo by: hoidongxitothanhgia.com

 Cuộc sống kham khổ tại Phước Sơn và sự dấn thân triệt để trong ơn gọi đan tu cũng như trong việc xây dựng cộng đoàn Xitô đầu tiên tại Việt nam đã vắt kiệt sức lực của cha Biển Đức Thuận. Vào những ngày cuối đời, cha trở bệnh nặng.


Văn Việt

Mục gương chứng nhân xin được tiếp tục nói về Cha Benoit Thuận, vị sáng lập dòng Xitô Phước Sơn tại Việt Nam, mà gần đây, Tòa Giám Quản Roma đã công bố sắc lệnh thu thập các chứng tích để tiến hành án phong chân phước cho Ngài.

7. Lần thứ hai tại tiểu chủng viện An Ninh – Cha Benoit Thuận là một giáo sư tận tụy nhưng khao khát đời sống đan tu

Sau năm năm đi truyền giáo, giờ đây cha Denis Thuận lại trở về tiểu chủng viện An-Ninh. Nhờ sự tận tụy của ngài mà trình độ các chủng sinh ngày được nâng cao.

Thế nhưng, dù bề bộn giữa bao công việc mục vụ và giảng dạy, từ lâu trong lòng cha Denis Thuận vẫn không ngừng âm ỉ nỗi ước mơ trở thành đan sĩ chiêm niệm và thiết lập một cộng đoàn đan tu. Nhưng đức cha Allys vẫn thấy cần giữ cha ở lại An-Ninh, do đó cha Denis Thuận lại tiếp tục thi hành nhiệm vụ giáo sư ở chủng viện năm năm nữa. Và chỉ đến năm 1918, ngài mới có thể ra đi thành lập Dòng Đức Bà Việt Nam trên núi Phước Sơn. Trong suốt những năm chờ đợi, ngài vẫn giữ nguyên niềm xác tín cần phải thành lập một dòng chiêm niệm ở Việt-Nam.

8. Tại núi Phước (hay Phước Sơn) - Cha Benoit Thuận là một đan sĩ hạnh phúc

Chúng ta đã theo dõi dấu chân của cha Denis Thuận trên các nẻo đường cuộc sống. Những trạm dừng đã không thể giữ chân ngài lại, ngài luôn vượt qua. Chỉ có một nơi đã giữ ngài lại cho đến hết cuộc đời, nơi ngài đã tìm thấy ý nghĩa và định hướng của cuộc đời của mình và là nơi, dù không còn tiếp xúc với trần gian, nhưng đã mang lại cho trần gian cái gì cao quí nhất.

Từ ngày dâng thánh lễ khai sinh vào lễ Đức Mẹ Lên Trời 15 tháng 8 năm 1918 cho đến ngày mặc áo dòng vào lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh ngày 2 tháng 2 năm 1920, là thời gian khai phá mảnh đất với sức người và những dụng cụ hết sức thô sơ. Một vài căn nhà thô sơ được dựng lên. Từ đây ngài mang tên gọi mới Biển Đức Thuận. Với nhiệm vụ của một bề trên, kiêm tập sư và mọi sinh hoạt vật chất, cha Biển Đức Thuận còn phải soạn Hiến Pháp để định hướng cho đời đan tu của cộng đoàn mới khai sinh. Thật là một trách nhiệm quá nặng nề.

Bốn năm sau khi thành lập, cộng đoàn đan viện bé nhỏ Phước Sơn đã có lớp tuyên khấn đầu tiên trong đó có Đấng sáng lập vào ngày 21 tháng 3 năm 1923. Đây đúng là ngày trọng đại!

Từ ngày tuyên khấn, khi cơ sở vật chất từng ngày ổn định, cha Biển Đức Thuận tìm kiếm một sự ổn định khác, quan trọng hơn; đó là việc sát nhập vào một dòng lớn để đảm bảo tương lai khi cộng đoàn phát triển mạnh mẽ, vì ngày ngày vẫn có nhiều người đến gõ cửa đan viện. Ngay từ khi mới thành lập dòng, cha Biển Đức thuận đã nghĩ đến việc sát nhập vào Dòng Xitô Nhặt Phép nhằm hổ trợ cho việc phát triển. Nhưng trên thực tế, mỗi lần muốn xúc tiến dự định này, ngài phải đương đầu với nhiều khó khăn tới mức, vào cả những ngày cuối đời, mơ ước ấy vẫn chưa được hiện thực.

Sau nhiều lần cố gắng sát nhập vào Dòng Xitô Nhặt Phép không đạt kết quả, cha Biển Đức bắt đầu tiến hành việc sát nhập vào Dòng Xitô, cũng được gọi là Xitô Chung Phép, nhưng cho đến cuối đời, ngài vẫn không thực hiện được. Và việc sát nhập này chỉ thành hiện thực hai năm sau ngày ngài qua đời.

Từ ngày tuyên khấn, Ngài thực thi lối sống mới một cách thận trọng, nhưng cũng không kém quyết liệt và tin tưởng, Ngài phải đối diện với những khó khăn và thử thách do chính cuộc sống mới này, nhưng chúng chỉ kiên vững thêm căn tính và cá tính của ngài. Chặng dừng chân cuối cùng này kéo dài suốt 15 năm với những biến cố kết dệt thành những chuỗi hồng ân. Vẫn là cuộc đời của cha Biển Đức Thuận, nhưng cuộc đời ấy ẩn chứa nhiều điều bí ẩn và mầu nhiệm.

Cuộc sống kham khổ tại Phước Sơn và sự dấn thân triệt để trong ơn gọi đan tu cũng như trong việc xây dựng cộng đoàn Xitô đầu tiên tại Việt nam đã vắt kiệt sức lực của cha Biển Đức Thuận. Vào những ngày cuối đời, cha trở bệnh nặng.

Trong lá thư ngày 18 tháng năm 1928, gửi Đức Cha Allys Lý, cha Biển Đức Thuận đã cho Đức Cha biết tình trạng sức khỏe của ngài như sau: “Sau khi khỏi được chừng mười lăm tháng, con bắt đầu khạc ra máu lại, nhiều hơn bao giờ hết. E rằng con sẽ chẳng giảng tĩnh tâm được vào tháng bảy tới đây. Tuy nhiên, trong việc này cũng như trong mọi việc khác, con chỉ xin vâng nghe Đức Cha; nếu Đức Cha bảo: “cứ thử xem”, con sẽ thử, và trông cậy vào ơn Chúa.”

Sức khỏe của ngài càng ngày càng suy giảm. Vài hôm trước khi qua đời, ngài bảo thầy y tá ghi chép bệnh tình của ngài để đọc cho cộng đoàn biết như sau: “bác sĩ khám cho cha rồi nói: “vô phương cứu chữa”, bởi vì lục phủ ngũ tạng của cha đều hỏng cả rồi. Như con biết đấy, cha bị đau tim, mỗi phút nó đập hơn trăm lần; cha đau thận, nên nước tiểu đầy máu. Cha còn đau phổi, nên khạc ra máu và ho luôn. Bao tử cha cũng có nhiều vấn đề: rối loạn tiêu hóa và thường buồn nôn. Ấy là chưa nói tới hội chứng trĩ. Cha đau đớn lắm, hơn nữa, từ ba tháng nay, cha sốt rét luôn, vì có vi trùng sốt rét. Bác sĩ đã nói với cha rằng: “Ngài còn sống được, là cả một phép lạ”. Nhưng cha thì cho rằng đó là nhờ ơn Chúa. Nay cha cảm thấy cha gần về cùng Chúa; con hãy cho anh em biết bệnh tình của cha mà cầu nguyện cho cha được tuân theo ý Chúa cho tới cùng.”

Vào những ngày cuối cùng, Ngài đau đớn cả hồn lẫn xác: ngài đau đớn thảm thiết nói: “Hãy cầu nguyện cho người hấp hối! Kinh khủng lắm!”, rồi ngài kêu cầu Đức Mẹ: “Thật khủng khiếp! Maria, Mẹ ơi, cứu con với! … Anh em trong Dòng giúp ngài bằng những lời khẩn cầu, và hiệu quả nhất là những lời kinh phụng vụ, chẳng hạn như lời “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con”… và các câu kinh cầu Đức Mẹ. Sự an bình trở lại ngay, nhưng liền sau đó lại xuất hiện một cơn khủng hoảng khác. Dường như kẻ hấp hối đang phải cật lực chiến đấu với ma quỷ vốn ra sức trả thù vì vô số các linh hồn đã được cha Bề trên đáng kính cứu vớt khỏi tay nó và vì ơn cứu độ mà nhà dòng Phước Sơn sẽ mang lại trong tương lai. Sau cùng, vài phút trước khi ly trần, ngài bình an thanh thản và nói: “Thế là đã hoàn tất!” Ngài xin xá giải lần cuối, giục lòng ăn năn thống hối, rồi trút hơi thở sau cùng một cách bình an lúc 8 giờ sáng, ngày 25 tháng 7 năm 1933.

Chúng ta nhận thấy cơn hấp hối của Cha Biển Đức Thuận tựa như là một sự thanh luyện cuối cùng. Chính trong những ngày hết sức đau đớn này mà ngài trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô chịu Khổ nạn, với Đấng đã từng chịu một cơn hấp hối vô cùng khổ não. Thế nhưng, khi tắt thở, ngài trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha, trong sự hoàn toàn tín thác.

 

Nguồn: Viện phụ M. Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn, o.cist.

Add new comment

1 + 0 =